Việt Nam và UPR Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát

Các ví dụ và quan điểm trong bài viết này có thể không thể hiện tầm nhìn toàn cầu về chủ đề. Bạn cũng có thể cải thiện bài này, thảo luận về vấn đề trên trang thảo luận, hoặc là tạo bài viết mới nếu thích hợp.

Tính đến năm 2019, Việt Nam đã tham gia đủ 3 chu kỳ UPR vào các năm 2009, 2014 và 2019. Việt Nam là một trong các quốc gia nhận được nhiều sự quan tâm nhất trong UPR, với số các quốc gia tham gia phần đối thoại tương tác rất lớn (76 quốc gia tham gia lần thứ nhất, 106 quốc gia tham gia lần thứ hai, và 121 quốc gia tham gia lần thứ ba).

Toàn bộ các văn bản liên quan đến UPR của Việt Nam trong 3 chu kỳ, bao gồm báo cáo của ba bên (Nhà nước, LHQ, và các bên liên quan), báo cáo của Nhóm Công tác về UPR, Kết quả UPR và Nghị quyết của Hội đồng Nhân quyền thông qua kết quả UPR của Việt Nam, cùng với bản lưu các webcast phiên đối thoại tương tác và phiên toàn thể thảo luận và thông qua kết quả tại Hội đồng Nhân quyền được đăng công khai trên trang về Việt Nam tại trang web của OHCHR.[26]

UPR là một cơ chế nhân quyền quốc tế được nhà nước Việt Nam coi trọng, có lẽ vì đây là một hình thức đối thoại với nhiều quốc gia nhất tại LHQ. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, bà Lê Thị Thu Hằng tuyên bố:

"Việt Nam đặc biệt coi trọng và nghiêm túc thực hiện UPR – một cơ chế thành công của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc dựa trên các nguyên tắc bình đẳng, đối thoại và hợp tác; coi đây vừa là nghĩa vụ của quốc gia thành viên Liên hợp quốc, đồng thời là cơ hội giới thiệu với cộng đồng quốc tế về những chính sách, nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong việc nỗ lực thúc đẩy và bảo vệ quyền con người" [27]

UPR lần thứ nhất của Việt Nam, 5/2009

Nhà nước Việt Nam đã tham gia UPR lần thứ nhất vào tháng 5/2009. Trong lần UPR này, báo cáo của Chính phủ Việt Nam đã được chuẩn bị với sự tham gia của một số Bộ, trong đó Bộ Ngoại giao là cơ quan đầu mối soạn thảo. Báo cáo cũng đã có sự tham vấn với một số tổ chức chính trị xã hội trong nước. Về Báo cáo của các bên liên quan, 12 tổ chức đã trình báo cáo lên Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp Quốc trước phiên UPR. Trong số này không có báo cáo nào từ các tổ chức xã hội dân sự trong nước.

Trong quá trình đối thoại tại UPR lần thứ nhất, 76 phái đoàn của các nước thành viên Liên Hợp Quốc đã tham gia đối thoại với phái đoàn Việt Nam. Trong số 146 khuyến nghị các nước dành cho Việt Nam, Nhà nước Việt Nam chấp nhận 94 khuyến nghị, khước từ 46 khuyến nghị, không có quan điểm rõ ràng với 05 khuyến nghị và để ngỏ 01 khuyến nghị.

Có thể tham khảo chi tiết các khuyến nghị năm 2009 bằng các ngôn ngữ LHQ tại trang web của Văn phòng Cao ủy Nhân quyền LHQ,[26] hoặc bằng tiếng Việt tại đây.

UPR lần thứ hai của Việt Nam, 2/2014

Lần UPR thứ hai của Việt Nam diễn ra vào tháng 2 năm 2014. Việc đóng góp thông tin cho kỳ UPR thứ hai diễn ra rộng rãi hơn so với kỳ thứ nhất. Báo cáo quốc gia đã được chính phủ tham vấn mở với các tổ chức chính trị xã hội và một số tổ chức phi chính phủ và mạng lưới. Về báo cáo của các bên liên quan, OHCHR công bố 59 báo cáo được coi là hợp lệ, trong đó 12 báo cáo chung. Trong số này có 17 báo cáo riêng và một báo cáo chung được gửi từ các tổ chức và mạng lưới đóng tại Việt Nam.

Tại phiên UPR lần thứ hai, phái đoàn Việt Nam do ông Hà Kim Ngọc, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao dẫn đầu, gồm 22 đại diện từ 11 cơ quan chính phủ. Trong phiên họp thứ 18 ngày 07 tháng 2 năm 2014, Nhóm công tác về UPR đã thông qua báo cáo về Việt Nam. Vào tháng 6/2014, kết quả UPR kỳ thứ hai của Việt Nam đã được thông qua tại kỳ họp thứ 26 của Hội đồng Nhân quyền.[28]

106 quốc gia đã tham gia đối thoại với Việt Nam trong kỳ UPR thứ hai và đưa ra 227 khuyến nghị. Trong số khuyến nghị này, Việt Nam chấp thuận 182 khuyến nghị. Một thực hành được phát triển trong kỳ UPR thứ hai là các quốc gia sẽ lựa chọn ủng hộ và chấp thuận hoặc “ghi nhận” chứ không “khước từ” trực diện các khuyến nghị. Với Việt Nam, các khuyến nghị vẫn được chia thành hai nhóm, được chấp thuận và không được chấp thuận.

Có thể tham khảo chi tiết các khuyến nghị năm 2014 bằng các ngôn ngữ LHQ tại trang web của Văn phòng Cao ủy Nhân quyền LHQ,[26] hoặc bằng tiếng Việt tại đây.

UPR lần thứ ba của Việt Nam

Phiên UPR thứ ba của Việt Nam diễn ra vào tháng 1/2019, với 121 quốc gia tham gia gửi trước 77 câu hỏi và đưa ra 291 khuyến nghị. Đã có 77 báo cáo của các bên liên quan được gửi tới cho Phiên kiểm điểm này, gồm 57 báo cáo đơn và 20 báo cáo chung, trong đó có 25/57 báo cáo đơn và 8/20 báo cáo chung đến từ các tổ chức và liên minh trong nước.

Trong phiên đối thoại tương tác của Nhóm Công tác về UPR với Việt Nam ngày 22/1 tại Hội đồng Nhân quyền, đoàn Việt Nam do Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Lê Hoài Trung dẫn đầu với sự tham gia của 11 bộ, ngành liên quan đã đối thoại 122 nước thành viên Liên hợp quốc về việc thúc đẩy quyền con người tại Việt Nam.

Tại phiên toàn thể của Hội đồng Nhân quyền vào tháng 7/2019, Việt Nam đã tuyên bố chấp nhận 241 khuyến nghị, trong đó chấp nhận hoàn toàn 220 khuyến nghị và chấp nhận một phần 21 khuyến nghị.

Có thể tham khảo chi tiết các khuyến nghị năm 2019 bằng các ngôn ngữ LHQ tại trang web của Văn phòng Cao ủy Nhân quyền LHQ,[26] hoặc bằng tiếng Việt tại đây.

Nội dung chính của các khuyến nghị UPR của Việt Nam.

Các vấn đề Việt Nam nhận được nhiều khuyến nghị nhất bao gồm:

- Tăng cường hợp tác với các cơ chế nhân quyền của LHQ (bao gồm tham gia các Công ước Nhân quyền mà Việt Nam chưa phải là thành viên (tiêu biểu là Công ước về bảo vệ tất cả mọi người khỏi mất tích cưỡng bức, Công ước về bảo vệ Quyền của lao động di trú và thành viên gia đình họ, các Công ước ILO mà Việt Nam chưa tham gia (số 105, 98, và 87), các nghị định thư tùy chọn kèm theo các công ước nhân quyền - trong đó đặc biệt là các nghị định thư quy định về cơ chế khiếu nại cá nhân), và tăng cường hợp tác với các Thủ tục đặc biệt của Hội đồng Nhân quyền;

- Thu hẹp, tiến tới bãi bỏ hình phạt tử hình (bãi bỏ hình phạt tử hình, đình chỉ việc thi hành án tử hình, thu hẹp phạm vi áp dụng án tử hình, công bố thông tin về việc áp dụng hình phạt tử hình ở Việt Nam);

- Giảm nghèo, xóa bất bình đẳng, thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững (MDGs, sau này là SDGs), phát triển nông thôn, tăng cường tiếp cận dịch vụ công.

- Tăng cường tiếp cận thông tin, tự do thông tin và tự do biểu đạt (bao gồm chấp nhận báo chí tư nhân, mở rộng tự do biểu đạt, bảo vệ tự do internet).

- Bảo vệ và hỗ trợ các nhóm yếu thế: phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số

- Tôn trọng và bảo vệ tự do tôn giáo và tín ngưỡng

- Thực thi Giáo dục nhân quyền, phổ biến rộng rãi thông tin về các chuẩn mực nhân quyền quốc tế và khuyến nghị của các cơ chế nhân quyền quốc tế dành cho Việt Nam, bao gồm các khuyến nghị trong UPR.

- Thiết lập các thiết chế quốc gia về bảo vệ và giám sát nhân quyền, bao gồm Cơ quan Nhân quyền Quốc gia, Cơ quan giám sát quyền trẻ em độc lập.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát http://vietnamupr.com/2014/06/thong-tin-co-ban-ve-... http://vietnamupr.com/ve-vietnam-upr/ http://nhri.net/default.asp?PID=85&DID=0 http://ap.ohchr.org/documents/E/CHR/resolutions/E-... http://ap.ohchr.org/documents/E/HRC/decisions/A_HR... http://ap.ohchr.org/documents/E/HRC/resolutions/A_... http://ap.ohchr.org/documents/dpage_e.aspx?si=A/HR... http://ap.ohchr.org/documents/dpage_e.aspx?si=A/HR... http://www.ohchr.org/EN/AboutUs/CivilSociety/Pages... http://www.ohchr.org/EN/HRBodies/UPR/Documents/upr...